Hồi Ký :
(từ 30.09.04
đến 29.10.04)
1- Từ Montpellier
đến Paris
Ngày giờ cho một chuyến Mỹ du của đôi uyên ương Minh Hồ &
Minh Hồ Đào đã đến.
-Lúc O giờ rạng sáng ngày
30.09.
Màn
đêm bao trùm vạn vật một màu đen. Bắt đầu vào thu, tiết trời hơi
lành lạnh.
Chúng tôi suốt cả tuần lo lắng sắp
xếp thu gọn quần áo mặc trong một tháng để đi dự Đại Hội Thơ, tham
quan thành phố và thăm bạn bè, mua quà tặng những người thân bên Mỹ
như nước tương Maggi, Foie Gras de Canard, mấy chai rượu mạnh, rượu đỏ,
cà phê do Pháp sản xuất và vài bịt kẹo, bánh cho ba đứa con nhỏ của
anh Chính, chị Điệp, nên đến giờ nầy mới được giây phút ngã lưng trên
chiếc giường đôi của cặp vợ chồng già.
Chúng tôi cố dỗ giấc ngủ để hồi lại sức lực dành cho cuộc
hành trình sắp tới suốt mười mấy tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay
từ Pháp sang Mỹ quốc.
Chặng đầu tiên chúng tôi khởi hành đi từ phi trường Montpellier Méditerranée
lúc 06 giờ 40 sáng ngày 30.09.04. Có thể nói tâm trạng của chúng tôi
lúc nầy không biết tả sao cho đúng.
Bởi nỗi vui hòa lẫn sự lo âu...Vì đây là lần đầu tiên chúng tôi đi
Mỹ nên có những cái sợ đối với người thường xuyên đi Mỹ thì gọi là
thừa.
Đặc biệt là chính tôi, vì tôi còn mang quốc tịch Việt mặc dù
Tòa Đại Sứ Mỹ tại Paris đã cấp Visa cho tôi vào nước Mỹ. Visa đề rõ
ràng là có giá trị một năm kể từ ngày 21.04.2004 đến 20.04.2005 tôi
muốn đi qua Mỹ lúc nào cũng được. Tuy biết rằng là vậy, nhưng trong lòng tôi vẫn lo
lắng. Nhiều lúc tôi đặt thí dụ không may trước cho vợ tôi nghe :
- Nầy em, nếu đến cửa khẩu
vào đất Mỹ mà một trong hai đứa bị đuổi về thì tất cả cùng về
nghe?
Vợ tôi thì ra vẻ lạc quan hơn
nên nói lại với giọng tự tin :
- Không có chuyện đó đâu, anh
cứ lo hoài mệt trí, để tâm trí nghĩ chuyện khác. Em nghĩ số mình
được đi mà.
Nghe vợ mình nói như thế, lòng tôi lắng dịu phần nào lo âu.
Chúng tôi nằm ngủ nhưng nào
có thẳng giấc ngủ đâu, vì sợ ngủ quên trễ chuyến bay kể như chương
trình đi bị sai lệch và rồi sẽ bị
nhiều phiền phức đến bản thân mình luôn cả người thân của mình bên
Mỹ nữa. Mặc dù đã để đồng hồ 3 giờ rưởi sáng đánh thức chúng tôi
dậy. Nhưng lòng tôi vẫn cứ mắc căn bệnh lo âu và hay có những ý nghĩ
xa vời vớ vẫn : lỡ đồng hồ không reo thì sao?
Song song nỗi lo lắng của tôi là anh
chị Nguyễn Duy Thông, anh chị Đặng Phi Hùng. Hai gia đình nầy đã hổ
trợ tinh thần gia đình tôi một cách tích cực trong suốt quãng thời
gian chúng tôi chuẩn bị hành lý đem qua Mỹ, mua quà cáp cho hợp túi
tiền mà người sống bên Mỹ ưa thích và
và chỉ dẫn những giấy tờ cần thiết có liên quan đến việc
chuyến đi Mỹ của chúng tôi sắp tới vì họ vừa mới đi Mỹ về.
Điểm quý giá nhứt của anh chị Hùng
là sẳn lòng lấy xe chở chúng tôi ra phi trường Montpellier
Méditerranée rạng sáng (4 giờ) ngày 30.09.04 trước giờ chị Hùng đi
làm việc. Và anh chị Thông thì nhận rước chúng tôi từ Mỹ về Pháp
tại phi trường Montpellier Méditerranée ngày 29.10.04 lúc 2 giờ chiều.
Sự giúp đỡ sốt sắng của anh chị Hùng, anh chị Thông làm chúng tôi
cảm kích vô cùng.
Tối hôm qua, ngày 29.09, lúc 21 giờ
đêm anh chị Hùng đến nhà nhờ chúng tôi trao lại cho Má anh Hùng đang
sống tại San José, gần nhà của anh Chính, tiền và một vài món đồ
nhỏ và nhẹ cân khi sang tới Mỹ.̣ Anh Hùng lấy giấy ghi lại tất cả
lịch trình của chuyến bay mà chỗ bán vé đi du lịch (Agence de voyage)
đã đưa cho chúng tôi. Anh cẩn thận ghi tóm lược từ lúc đi đến khi về
tới Pháp.
Lộ trình của chúng tôi như sau :
Montpellier - Paris - Chicago - San José - Washington DC- Paris- Montpellier.
Vé mua là 695 Euros một người, không được đổi tên người đi hay thay đổi
ngày giờ đi về.
Chúng tôi có 2 trạm dừng chân là San
José (3 tuần) ở nhà người anh ruột thứ tư Đào Trung Chính và
Washington DC (một tuần) để dự Đại Hội Thơ Kỳ 4 do Hội Thơ Tài Tử Việt
Nam Hải Ngoại tổ chức từ 21.10 tới 28.10
Anh Hùng ghi tóm lược trên một tờ
giấy nhỏ chữ to ngày, giờ và cửa khẩu phải đổi từ Montpellier tới
San José để chúng tôi dể nhớ và không cần phải móc ra móc vô tờ
lịch trình, không khéo thì vé máy bay bị đánh rơi mất. Sự lo lắng
của anh chị Hùng về việc đi Mỹ của chúng tôi khiến tôi cảm xúc vô
vàn, cho tôi có cảm nghĩ rằng đây là chuyến đi của anh chị. Gần 12
giờ đêm , anh chị Hùng cáo biệt ra về cùng để dành sức, sáng sớm
ngày mai thức dậy đưa chúng tôi ra phi trường Montpellier Méditerranée.
Dù để đồng hồ reo nhưng chúng tôi
thức dậy trước, chuẩn bị thay quần áo tươm tất, kiểm soát lại giấy
tờ lần chót. Cùng lúc với đồng hồ để báo thức 3 giờ sáng rạng
ngày 30.09, tiếng chuông điện thoại reo. Tôi bắt nghe, từ đầu dây bên
kia phát lên giọng khàn khàn của anh Hùng.
-Allô, thức chưa, tôi đến ngay.
-Đã thức rồi, tôi đáp nhanh.
Một khắc sau, anh chị Hùng đến và
đem cho chúng tôi hộp thuốc uống ngừa say sóng. Và anh còn cho chúng
tôi thêm viên thuốc tăng cường sức khỏe trong khi đi đường. Gần 3 giờ
rưởi sáng anh chị Hùng nói :
-Thôi chúng mình lên đường.
Tất cả hành lý chúng tôi đã để sẳn
từ chiều gần cửa ra vào. Anh chị Hùng xách phụ hành lý đem xuống xe
của anh chị. Chiếc xe hơi của anh chị Hùng tuy nhỏ nhưng đã chứa hết
2 cái valise của chúng tôi. Đó là nhờ tài khéo léo sắp xếp của
anh Hùng. Xe từ từ lăn bánh, tôi
ngoái đầu lại phía sau nhìn xuyên qua kính xe, lòng luyến tiếc lâng
lâng dù biết rằng chỉ đi có một tháng, xa vắng căn nhà, cây trồng
nhất là giàn rau mồng tơi đang xanh mướt, một dãy cây hoa Quỳnh đã
trổ hoa năm nay rất là kỳ lạ, có hai hoa
mọc hai bên rìa của một lá xong tréo lại thành hình quả tim,
những chậu rau dắp cá, tía tô, hẹ, húng quế v.v., một mái ấm hạnh phúc, một túp lều lý
tưởng cho đôi uyên ương.
Đến cổng phi trường Montpellier Méditerranée thời gian quá sớm.
Chưa có ai tới làm việc. Chúng tôi phải ngồi chờ đợi đến 5 giờ sáng
thì thấy nhân viên bắt đầu đến hành sự. Anh Hùng như là nhân vật
chính trong chuyến đi nầy. Anh đi tới lui không ngừng bước trước chổ
tiếp nhận vé máy bay của hành khách và làm thủ tục cân hành lý.
Anh tới nói với một nhân viên đàn ông (người Pháp) rằng vợ tôi là
người đang thuộc diện tàn tật, cần một chiếc xe lăn đã ghi danh trong
hồ sơ lúc mua vé máy bay. Sau khi xem xét giấy tờ của chúng tôi hợp
lệ, họ đem đến cho vợ tôi một chiếc lăn. Một tay nàng chống gậy, một
tay níu chặt lấy tay chồng, chân bước khập khểnh theo sự dìu dắt
thật chậm của chồng từ từ ngồi trên chiếc xe lăn. Trước giờ phút
chia tay anh chị Hùng, Nho móc máy ảnh ra nhờ anh Hùng chụp cho một
tấm ảnh làm kỷ niệm.
Chụp hình xong, đã đến giờ chúng tôi
đi vào bên trong nhà kiếng. Một nhân viên thi hành phận sự đến đẩy
chiếc xe lăn đưa Nho vào bên trong. Anh chị Hùng đưa tay vẫy chào tạm
biệt và gởi lời chúc chúng tôi lên đường vui tươi và bình yên. Khoảng
cách giữa chúng tôi với anh chị Hùng xa dần rồi mất hút vào trong
không gian.
Tôi bám sát theo chiếc xe lăn, hai tay
xách hai túi đựng đồ gọn nhẹ. Bánh xe lăn qua các ngõ ngách tắt
ngang mà chỉ có nhân viên hành sự mới được đi và vào thôi. Dù được
ưu tiên vấn đề được ngồi xe lăn nhưng chúng tôi vẫn phải chấp hành
luật an ninh phi trường. Phải qua vị trí kiểm soát từ thân thể con
người đến hành trang mang theo giống như bao nhiêu người khác. Và kế
đó, chúng tôi được hướng dẫn tới phòng ngồi chờ đợi lên máy bay.
Sau khi ổn định chổ ngồi chờ đợi cho Nho, tôi nói với nàng :
- Em ngồi đây nghe, anh đi tìm
chổ bán thuốc lá mua giùm cho anh Hùng.
Tôi đi nhanh tìm khắp cửa
tiệm, nhưng thuốc lá hiệu ba số 5 không có bán tôi đành quay trở lại
chổ Nho ngồi với nét mặt không được thoải mái lắm. Nho hỏi :
- Sao, có không anh?
Tôi lắc đầu, đáp nhanh:
- Không có bán hiệu ba số 5, anh đâu dám
mua các hiệu khác. Mà anh thấy các hiệu thuốc khác bán cũng mắc
quá.
- Không có bán, thôi mình để lên máy bay
mua chắc rẻ.
Gần tới giờ máy bay cất cánh nhân viên
kiểm soát vé bắt đầu tới vị trí làm việc. Một điều sung sướng
nhứt la chúng tôi được ưu tiên vào máy bay trước, ở đây cũng có người tới đẩy chiếc xe
lăn đưa Nho đi nhanh vào bụng máy bay. Lẽ dĩ nhiên tôi được hưởng theo.
Chúng tôi được xếp ngồi ghế hàng thứ ba. Chúng tôi trút hết mọi lo
lắng qua hơi thở mạnh để nhẹ lòng ngực. Nhứt là tôi luôn luôn mang
bệnh lo âu. Giờ đây kể như xong một giai đoạn đầu của chuyến đi sang
Mỹ dự Đại Hội Thơ và thăm bên gia đình vợ.
Đúng 6 giờ 40 máy bay Air France, mang số AF 7681 khởi động cho
máy bay nổ máy và từ từ lăn bánh trên phi đạo của phi trường Montpellier
Méditerranée độ chừng 2 phút sau máy bay cất cánh bay hỏng khỏi mặt
đất. Đến 8 giờ 10 phút máy bay đáp xuống phi đạo của phi trường Charles
de Gaulle, cửa số 2D. Bước xuống phi trường nầy chúng tôi vẫn tiếp
tục hưởng quy chế ưu tiên cho du khách tật nguyền. Vì chúng tôi được
nhân viên hành sự đưa đi qua các chổ dành riêng cho nhân viên phi trường
đi. Nhờ vậy chúng tôi đến phòng
ngồi chờ đợi đi chuyến bay từ Paris
tới Chicago quá sớm so với giờ giấc du khách bình thường.
2.- Từ Paris đến
Chicago và San José
Chúng tôi ngồi chờ đợi gần 2 tiếng đồng hồ tại phi trường
Charles de Gaulle, đến 11 giờ chúng tôi bắt đầu lên máy bay số US 6943
của hảng máy bay US AIRWAYS để đi tới Chicago. Đây là lần thứ nhì tôi
đặt chân lên máy bay. Lần đầu năm 1992, tôi cùng đứa con trai rời phi
trường Singapour đi qua Pháp dưới diện người tị nạn chính trị. Lúc
đó nhằm vào chuyến bay đêm nên tôi không nhìn thấy gì phía ngoài máy
bay. Còn bây giờ là trời sáng nên tôi đã nhìn tận mắt thấy bên ngoài
máy bay đang bay trên không trung. Ôi, một hình ảnh đối với tôi vô cùng
mới lạ, tôi cảm tưởng rằng tôi đang là người của thế giới khác. Tôi
nhìn qua cửa sổ máy bay, trông xuống phía dưới toàn là mây trắng và
giống như bông gòn. Xa xa tôi thấy mây chụm lại từng cụm trông như dãy
núi dài bất tận. Tôi xoay người lại về phía Nho đang ngồi mà nét
mặt đổi sắc vì có lẽ ngồi lâu
nàng thấm mệt. Tôi nói qua giọng ngạc nhiên :
- Em, bên ngoài mây đẹp quá.
Lần đầu tiên anh mới thấy.
Nho cười nhẹ hài hòa với nỗi vui lạ
của tôi. Lúc nầy tôi cảm tưởng mình
giống như là một đứa trẻ nít lần đầu tiên theo mẹ cha dẫn đi
dạo phố chổ đông người với bao ánh đèn màu rực rỡ.
Thời gian dài từ Paris đến Chicago là 9 tiếng 25 phút. Tôi thấy
trong người có vẻ hơi mệt. Tôi biết chắc rằng Nho cũng mệt nhiều.
Chúng tôi có lúc nhắm mắt để dỗ giấc ngủ để quên nỗi mệt nhọc và
mong thời gian qua mau để xuống phi trường Chicago. Gần tới phi trường
Chicago, phóng thanh từ phòng lái của
viên phi công báo cho du khách biết là máy bay sắp đáp xuống phi
trường, các động tác an toàn được chiêu đãi viên hàng không hành động
lại chủ yếu để nhắc nhở du khách hãy cẩn thận tránh điều bất trắc
nếu lỡ xảy ra khi máy bay đáp xuống mặt đất. Bánh xe máy bay ngừng
lăn trên phi đạo và đậu vào đúng vị trí cho du khách rời khỏi máy
bay, tôi nhìn đồng hồ theo giờ địa phương là 13 giờ 30, giờ của tiểu bang Chicago. Đây là cửa khẩu then
chốt vào nước Mỹ. Vì vậy tất cả du khách ngoại quốc đến nước Mỹ
đều phải trải qua tất cả cuộc sát hạch, kiểm soát gắt như chụp
hình, lấy dấu tay. Hành lý phải lấy ra xong rồi gởi trở lại để kiểm
soát lần nữa trước khi chuyển tới trạm cuối cùng, nơi mình muốn
xuống.
Và tại đây chúng tôi cũng được sự ưu
tiên di chuyển nhanh chóng vào phòng ngồi chờ đợi lên máy bay giống như những lần trước.
Thời
gian nầy cả hai chúng tôi thật sự vui mừng. Nhất là tôi không còn sợ
sệt gì nữa. Nho lộ nét mặt tươi như bông hoa nở buổi sáng là nàng
sắp gặp lại những người thân thương mà 30 năm xa cách nhau miệt mài
nhung nhớ.
15 giờ 10 qua cửa O’ Hare, chúng tôi
lên chiếc máy bay số US 6055 để đến phi trường San Jose. Chúng tôi nôn nóng
mong thời gian trôi nhanh. Chúng tôi không còn ngủ được. Vì chỉ còn 4
giờ đồng hồ nữa thôi là chấm dứt chuyến hành trình đi ở giai đoạn
đầu là tới San José để thăm gia đình. Lúc nầy tôi cảm thấy như máy
bay bay với tốc độ chậm và nhìn ra bên ngoài qua ô cửa, tôi có cảm
giác như máy bay ngừng bay, dừng lại một chỗ. Nhưng rồi cũng sẽ
đến...
17 giờ 41 phút máy bay đáp xuống phi
đạo San Jose. Chúng tôi được đưa nhanh ra cửa C để chờ anh Chính tới
rước về nhà. Chúng tôi tới quày cho ra hành lý của du khách để tìm
lấy valise của mình. Nhưng chúng tôi chỉ thấy có 1 valise thôi. Sau một
thời gian quay quần tìm kiếm cuối cùng chẳng thấy đâu, Nho vào văn
phòng phi trường khiếu nại về sự thất lạc valise thứ hai nầy. Riêng
tôi ở ngoài chờ đợi và tới lui cửa C để đón anh Chính.
18 giờ 02 phút trong lúc Nho đang tiếp
xúc với nhân viên phi trường ở trong văn phòng khiếu nại thì anh Chính
đến. Từ xa chúng tôi nhận ra nhau. Có lẽ nhờ nhìn được ngay là do đã
xem hình trước. Cách chừng 5 thước, cả hai, anh vợ và em rể đưa tay
chào mừng. Tôi đi tới gần anh Chính, chưa kịp bắt tay anh thì anh
Chính lên tiếng trước:
- Xin lỗi Minh Cảnh nghe, mình
đến trễ.
- Dạ, kính chào anh. Lúc
này, tôi không còn quan tâm đến việc giờ giấc trễ hay sớm nữa. Tôi
nóng lòng, vô đề ngay :
- Anh Chính, có một vấn đề
là lạc một valise, Nho đang ở trong văn phòng khiếu nại kia, anh vào
xem sao.
Anh Chính lặng lẽ nhanh chân bước đi về hướng văn phòng. Tôi
đứng ngoài chờ đợi. Một lúc sau, Nho và anh Chính cùng đi ra. Tôi đến
sát bên Nho hỏi :
- Sao em?
- Họ sẽ tìm và liên lạc với
mình sau. Em đã đưa biên lai ghi số valise bị thất lạc và anh Chính cho
họ số điện thoại để liên lạc, Nho trả lời.
Tôi im lặng nhìn hai người.
Nho lại lên tiếng :
- Thôi, giờ mình đi về nhà.
Chúng tôi tiến nhanh ra cửa và theo chân anh Chính băng qua lộ
tới chỗ xe anh Chính đậu. Xe anh Chính là thuộc loại mini van tương tự
như xe 8 chỗ ngồi của Pháp ( Renault espace).
Tất cả 3 người lên xe. Anh Chính lái
xe hướng về nhà. Tôi nhìn thành phố và quốc lộ của nước Mỹ quả
thật lời đồn không sai. Nước Mỹ lớn thì cái gì cũng lớn và rộng
rải. Đường lộ lớn hơn bên Pháp nhiều, nhà cửa kiến trúc tối tân. Anh
Chính cho xe chạy được một đoạn đường, anh vừa nói vừa đưa ra cho
chúng tôi xem tập thơ “ Tình Chàng Ý Thiếp” đã được in tại nhà in
của Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại ở San José, Hoa Kỳ. Lần này
mới chính thực là bìa quyển sách TCYT so với bản chánh 90% . Nhưng
cũng cho là đẹp và trang nhả, có thể mai đây đem ra Đại Hội trình
làng được rồi. Anh Chính nói :
- Sách in ra trông cũng đẹp
chứ?
Nho nói :
- Dạ, đẹp. Còn lần trước lúc
gởi mẫu in cho mình xem trông xấu quá.
Tôi nói thêm vào :
- Ít ra cũng như vầy, tuy
không giống bản chánh.
Anh Chính và chị Điệp dự định là tối
nay sau khi rước chúng tôi về nhà là dẫn nhau đi ăn cơm tiệm ở quán
Việt Nam hay là quán Mỹ.
Nhưng Nho nói :
- Thôi đi quán ăn làm gì. Ăn
ở nhà, có gì ăn nấy.
Tôi cũng phụ họa, mắt nhìn
thẳng vào anh Chính :
- Đúng vậy anh ạ. Mình ăn ở
nhà vui hơn.
Anh Chính lặng lẽ một khắc rồi cũng
đồng thuận theo ý kiến của chúng tôi. Rồi anh móc trong túi áo lấy
cell phone gọi báo chị Điệp rõ là đã đón rước Út Lớn và Minh Cảnh
đang trên đường về nhà. Và sẽ dùng cơm ở nhà thay vì đi ăn ở tiệm.
19 giờ 10 Chúng tôi về tới nhà anh
chị Chính-Điệp. Nhà nầy xây dựng theo kiến trúc Mobil home có nghĩa
là nhà có thể dời đỗi đi nơi khác.
Anh
Chính đánh tiếng hỏi dò ý sau khi chúng tôi tắm xong :
- Út Lớn và Minh Cảnh có muốn
thưởng thức tài nấu nướng của chị Điệp chưa? Thích ăn món nào? Bún
bò Huế hay Hủ tiếu Mỹ Tho?
Nho không do dự đáp nhanh :
- Hủ tiếu Mỹ Tho
Tôi và anh Chính cùng đồng ý theo ý
của Út Lớn
Thế là buổi tối đầu tiên tới đất
Mỹ chúng tôi dùng một bữa ăn quê hương trong bầu không khí gia đình
thật thân mật và đấm ấm. Suốt 30 năm dài đăng đẳng xa cách, nay hai anh
em Chính & Út Lớn gặp lại hàn
huyên tâm sự không ngừng. Chị Điệp nói :
- Anh Cảnh ít nói.
- Út Lớn nói thế em rồi. Khi
nào Út Lớn ngừng nói thì tới em.
Và tôi cũng tự nghĩ : mình là người
mới nhập cuộc vào gia đình bên vợ đâu có đề tài gì để nói. Tôi chỉ
biết đùa giỡn một tí với đứa con trai thứ hai của anh chị
Chính-Điệp. Chị Điệp thấy tôi giỡn với đứa con trai thứ hai của chị,
chị nhắc khéo tôi :
- Đừng đùa với nó. Nó biết
ai đùa với nó, nó giỡn nhây lắm. Tôi cười nhẹ rồi sau đó buông lơi
dần sự đùa giỡn với trẻ con.
Trong thời gian chờ đợi chị Điệp trổ
tài nấu món Hủ tiếu Mỹ Tho, anh Chính dẫn chúng tôi đi viếng từng
phòng trong căn nhà. Anh Chính chỉ đây là phòng ngủ của Út Lớn và
Minh Cảnh. Kia là phòng tắm. Chỗ nọ là máy giặc đồ, máy sấy khô.
Chúng tôi đi theo anh Chính hướng dẫn từng chổ để đồ dùng trong nhà
cho chúng tôi quen mà lần sau tự túc xử dụng, vì chương trình của
chúng tôi là ở nơi đây trong 20 ngày. Chị Điệp thì lo làm bếp. Sau đó, anh Chính lo đi tắm
rửa hai đứa con trai lớn 4 tuổi và 2 tuổi rưởi. Út Lớn phụ cho cháu
nhỏ vừa mới sanh hôm tháng sáu bú sữa bình.
Món hủ tiếu Mỹ Tho được
dọn lên bàn nóng hổi, thơm phức mùi gia vị làm chúng tôi nôn nóng muốn
ngồi vào bàn ăn liền. Anh Chính nói :
- Cứ việc ăn nghe, không có
làm khách gì hết.
Tôi ngồi vào bàn trước, rồi kế đó
là Út Lớn, chị Điệp và người sau cùng là anh Chính.
Gần 10 giờ đêm, có một cú điện thoại từ phi trường San José
báo cho biết là valise bị thất lạc đã tìm ra rồi, valise bị lạc ở
chuyến bay tới và khoảng 2 giờ sáng họ đem lại nhà. Anh Chính cầm
đầu máy điện thoại nghe và đồng ý giờ giấc ấn định. Chúng tôi hỏi anh Chính tại sao tới 2 giờ sáng họ
mới đem tới. Anh Chính trả lời chúng tôi rằng máy bay có chứa valise
bị lạc đáp trễ. Nếu mình không chịu thức đợi họ đem đến thì 8 giờ
sáng mai mình phải tới phi trường lấy. Nhưng gần tới 11 giờ thì nhận
thêm một cú điện thoại nữa báo là
sẽ có người đem valise tới ngay bây giờ.
Một vài phút sau, ngoài cửa có tiếng động. Cả nhà đều đoán
biết là nhân viên phi trường đem giao hành lý bị thất lạc ban chiều.
Chúng tôi định cho người đem hành lý tới tận nhà một chút tiền nho
nhỏ gọi là đáp công lao mang tới nhưng khi tôi ra tới cửa thì người
giao hàng đã lên xe đi rồi.
Anh Chính nói nửa đùa nửa thật :
- Chưa đòi tiền bồi thường
đó là may rồi, ở đó mà còn cho tiền tip (pourpoire).
Nhận lại valise bị thất lạc, chúng
tôi mừng vô cùng, vì trong valise này có đồ của anh chị Hùng gởi cho
gia đình má cùng các em của ảnh ở San José. Chúng tôi đem valise vào
phòng ngủ kiểm lại thì thấy không mất một món nào, nhưng bị kiểm
soát, quần áo đồ đạt tung toé không còn thứ tự như lúc chúng tôi
sắp xếp ở nhà.
Ngày đầu tiên chúng tôi tới đất Mỹ vui hưởng một bầu không khí
gia đình, đầm ấm hạnh phúc, bù đắp lại 14 tiếng đồng hồ trên tuyến
đường bay từ Pháp sang Mỹ, có thể mệt lã người nhưng lòng tràn đầy
niềm hân hoan, nhứt là Út Lớn, vợ tôi lộ nét vui mừng tột cùng bởi được
gặp lại người anh xa cách đúng 30 năm.
(còn
tiếp)
Montpellier
02.12.2004
Minh
Hồ&Minh Hồ Đào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét